Vướng mắc về căn cứ pháp luật trong cách tính thu nhập sau thuế đối với định mức hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định của pháp luật đất đai trên địa bàn tỉnh An Giang
29/03/2019
Quyết định số 33/2018/QĐ-UBND ngày 09/10/2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh (thay thế Quyết định số 08/2015/QĐ-UBND ngày 30/3/2015 của UBND tỉnh) V/v ban hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh An Giang có quy định tại Điều 29 về hỗ trợ do ngừng sản xuất kinh doanh cho người bị thu hồi, giải tỏa đất như sau: “1. Khi Nhà nước thu hồi đất mà tổ chức kinh tế, người sản xuất kinh doanh bị ngừng sản xuất kinh doanh thì được hỗ trợ như sau:
a) Trường hợp có đăng ký kinh doanh thì được hỗ trợ bằng 30% một năm mức thu nhập sau thuế theo mức thu nhập bình quân của ba năm liền kề trước đó. Nếu kinh doanh chưa đủ ba năm thì tính bình quân các năm đã kinh doanh.
b) Trường hợp người buôn bán nhỏ lẻ không thuộc đối tượng chịu thuế thì tùy tình hình thực tế, Hội đồng bồi thường xác định mức hỗ trợ phù hợp với thu nhập (lợi nhuận) thực tế, tối đa không quá 03 tháng thu nhập tương ứng với loại hình kinh doanh bị ngừng sản xuất kinh doanh”.
Như vậy, theo quy định tại Điểm a) nêu trên, để có định mức cụ thể của số tiền thu nhập sau thuế đối với một hộ có đăng ký kinh doanh là bao nhiêu để tính được 30% một năm mức thu nhập sau thuế nhằm quyết hỗ trợ cho người người bị thu hồi, giải tỏa đất thì phải có quy định của ngành Thuế về phương pháp tính mức thu nhập sau thuế . Tuy nhiên, hiện nay Ngành thuế xác định, theo Thông tư số 92/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính (Hướng dẫn thực hiện thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân cư trú có hoạt động kinh doanh; hướng dẫn thực hiện một số nội dung sửa đổi, bổ sung về thuế thu nhập cá nhân quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế số 71/2014/QH13 và Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ngày 12/02/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế và sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về thuế) thì chỉ quy định hộ kinh doanh tính thuế bằng doanh thu nhân với tỷ lệ thì sẽ ra số thuế, không có nội dung nào quy định tính mức thu nhập sau thuế như quy định tại Điểm a) Điều 29 Quyết định số 33/2018/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh. Vừa qua và hiện nay, nhiều trường hợp khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện các Dự án, địa phương gặp lúng túng trong việc lập phương án hỗ trợ cho các hộ dân bị giải tỏa có đăng ký và sản xuất kinh doanh vì không có cơ sở để tính mức thu nhập sau thuế để hỗ trợ cho hộ giải tỏa. Để đảm bảo quyền lợi của công dân và tuân thủ quy định của pháp luật, khi xây dựng phương án bồi thường có nội dung hỗ trợ bị ngừng sản xuất kinh doanh, các địa phương cần phối hợp với ngành Thuế áp dụng cho phù hợp.
Đề nghị các địa phương và ngành Thuế phản ánh kịp thời đến Sở Tài nguyên và Môi trường (đơn vị tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 33/2018/QĐ-UBND) cùng nghiên cứu phối hợp báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét điều chỉnh, bổ sung nội dung quy định nêu trên cho phù hợp. /.
Nguồn: Lưu Thị Anh Thư (PTP. TT. Khiếu nại, tố cáo)
Tin liên quan:
Ngày 09/9/2022, Đoàn thanh tra theo Quyết định số 51/QĐ-TTT tiến hành tổ chức công bố Kết luận thanh tra số 03/KL-TTT ngày 26/8/2022 của Thanh tra Tỉnh về việc thanh tra trách nhiệm Chủ tịch UBND thành phố Châu Đốc đối với việc thực hiện các quy định pháp luật thanh tra, tiếp công dân, khiếu nại, tố cáo.
Ngày 01/10/2021, Thanh tra Chính phủ ban hành Thông tư số 05/2021/TT-TTCP quy định Quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh. Thông tư có hiệu lực kể từ ngày 15/11/2021 và thay thế Thông tư số 07/2014/TT-TTCP ngày 31/10/2014 của Thanh tra Chính phủ
Việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong công tác theo dõi, quản lý thông tin tiếp công dân, xử lý đơn, giải quyết khiếu nại, tố cáo mang lại nhiều hiệu quả, giúp cán bộ làm công tác tiếp dân, xử lý đơn rút ngắn thời gian xử lý, thông tin được tập trung đầu mối, tra cứu thông tin, thống kê nhanh chóng, khắc phục những bất cập trong công tác tiếp công dân, xử lý đơn, hạn chế đơn thư trùng lắp.
Luật Khiếu nại năm 2011 và Nghị định 124/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Khiếu nại không quy định Đoàn xác minh hoặc Tổ xác minh phải xây dựng Kế hoạch xác minh nội dung khiếu nại trình người ra quyết định thành lập Tổ xác minh hoặc Đoàn xác minh phê duyệt và tổ chức thực hiện. Như vậy, vấn đề đặt ra là có cần thiết phải xây dựng Kế hoạch xác minh nội dung khiếu nại.
Luật PCTN năm 2018 có hiệu lực ngày 01/7/2019 đã mở rộng hình thức tiếp nhận thông tin về tham nhũng, bao gồm: phản ánh, tố cáo và báo cáo về hành vi tham nhũng. Do đó trong quá trình tiếp nhận thông tin, công chức được giao thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, xử lý đơn cần phân biệt giữa phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng để tham mưu đề xuất xử lý theo đúng quy định.
Thực hiện Kế hoạch số 322/KH-BDN ngày 13/5/2022 của Ban Dân nguyện Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch số 341/KH-UBND ngày 24/5/2022 phối hợp tiếp công dân phục vụ Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV. Qua đó, nhằm tổ chức tốt, có hiệu quả công tác tiếp công dân, chủ động xử lý kịp thời tình huống các đoàn công dân khiếu nại, tố cáo đông người, bức xúc đến các cơ quan của tỉnh và Trung ương tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, góp phần bảo đảm an ninh trật tự, an toàn tại Kỳ họp.
Thực hiện chỉ đạo của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh tại Văn bản số 571/UBND-TD ngày 17/6/2021 về việc phân công đối thoại giải quyết khiếu nại trước khi Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành quyết định giải quyết khiếu nại lần hai, ngày 14/4/2022, Chánh Thanh tra tỉnh Võ Thị Siêu chủ trì đối thoại giải quyết khiếu nại của công dân, tham dự đối thoại gồm có lãnh đạo Ban Tiếp công dân tỉnh, Sở Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân thành phố Long Xuyên và 03 công dân khiếu nại Cửu Đạt Bình, Nguyễn Văn Dũng, Lâm Ngọc Hiếu.
Thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Quyết định số 1364/QĐ-UBND ngày 07/6/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc thành lập Tổ Công tác kiểm tra, rà soát, giải quyết vụ việc khiếu nại, tố cáo đông người, phức tạp, kéo dài. Trên cơ sở đó, Thanh tra tỉnh đã xây dựng Kế hoạch số 31/KH-TTT ngày 25/3/2022 về kiểm tra thực hiện kết luận tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn tỉnh.
Thực hiện Quyết định số 14/QĐ-TTT ngày 18/02/2019 của Thanh tra tỉnh về thanh tra trách nhiệm Chủ tịch ƯBND huyện An Phú đối với việc thực hiện pháp luật tiếp công dân, khiếu nại, tố cáo và giải quyết tranh chấp đất đai, thời kỳ thanh tra từ năm 2017 đến năm 2018.
Thi hành quyết định có hiệu lực pháp luật, trong đó có quyết định về giải quyết tranh chấp đất đai những năm qua đã được Ủy ban nhân dân các cấp quan tâm và tổ chức thực hiện đạt nhiều kết quả khả quan. Tuy nhiên, hiện nay qua thực tiễn kiểm tra và thống kê các quyết định còn tồn đọng nhận thấy Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, thị, thành phố cần đặc biệt quan tâm chỉ đạo thực hiện một số nội dung để có giải pháp xử lý dứt điểm, đạt kết quả tốt hơn nữa trong thời gian tới.