Một số vấn đề cần lưu ý về pháp lý khi xem xét tiếp nhận quyền đại diện của người đại diện thực hiện việc khiếu nại
26/02/2018
Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại là một trong những chế định quan trọng được quy định trong Luật Khiếu nại, trong đó, người khiếu nại có quyền được người khác đại diện hợp pháp cho mình để thực hiện việc khiếu nại. Vì vậy, khi người đại diện tham gia quá trình khiếu nại và giải quyết khiếu nại thì những nội dung và chứng cứ người đại diện cung cấp là cơ sở pháp lý quyết định đến nội dung giải quyết quyền lợi và nghĩa vụ của người khiếu nại. Do đó, việc xem xét ban đầu tính pháp lý của hồ sơ về tư cách đại diện là khâu rất quan trọng để người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại chấp nhận đúng tư cách hợp pháp của người đại diện.
Điểm a, b, Khoản 1 Điều 12 Luật Khiếu nại quy định người khiếu nại có các quyền “Tự mình khiếu nại, trường hợp người khiếu nại là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thì người đại diện theo pháp luật của họ thực hiện việc khiếu nại. Trường hợp người khiếu nại ốm đau, già yếu,có nhược điểm về thể chất hoặc vì lý do khách quan khác mà không thể tự mình khiếu nại thì được ủy quyền cho cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị, em ruột, con đã thành niên hoặc người khác có năng lực hành vi dân sự đầy đủ để thực hiện việc khiếu nại. Nhờ luật sư tư vấn về pháp luật hoặc ủy quyền cho luật sư khiếu nại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trường hợp người khiếu nại là người được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật thì được nhờ trợ giúp viên pháp lý tư vấn về pháp luật hoặc ủy quyền cho trợ giúp viên pháp lý khiếu nại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình;”
Pháp luật khiếu nại hiện hành không có nội dung quy định về hồ sơ và thủ tục pháp lý xác định tư cách hợp pháp của người đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền. Tuy nhiên, pháp luật về dân sự có quy định rất cụ thể nên đây là căn cứ để xem xét xác định tính hợp pháp và hiệu lực của việc đại diện nêu trên.
Thực tiễn thời gian qua, quá trình giải quyết khiếu nại, nhiều địa phương và sở, ngành còn lúng túng trong cách hiểu và áp dụng pháp luật để kiểm tra, rà soát các điều kiện cần và đủ trong vấn đề đại diện nhằm chấp nhận đúng tư cách và nội dung đại diện của người khiếu nại; thậm chí một số trường hợp hiệu lực của việc đại diện đã hết hoặc nội dung đại diện theo ủy quyền còn chung chung, không cụ thể nhưng người giải quyết khiếu nại lại không chú ý kiểm tra làm rõ nên dẫn đến việc lập hồ sơ và ban hành văn bản giải quyết không đúng đối tượng, không đảm bảo tính chính xác về ý chí và yêu cầu của người khiếu nại. Điển hình có những trường hợp như: Ủy quyền đại diện tham gia việc khiếu nại liên quan đến yêu cầu nâng giá bồi thường, hỗ trợ và tái định cư nhưng nội dung tiếp nhận giải quyết thì người được ủy quyền lại có thêm yêu cầu khiếu nại về việc thu hồi thiếu diện tích đất; có trường hợp giấy ủy quyền ghi ủy quyền cho bà A để yêu cầu UBND huyện B thi hành quyết định theo bản án của Tòa án nhân dân xét xử và yêu cầu bồi thường hỗ trợ tái định cư theo Bản án C, nhưng sau đó, giấy ủy quyền này lại được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận cho người được ủy quyền làm đơn khiếu nại quyết định giải quyết bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của UBND huyện B; hoặc có vụ việc người ủy quyền đã chết nhưng giấy ủy quyền trước đó của người này do cơ quan giải quyết khiếu nại thiếu kiểm tra nên vẫn tiếp tục được chấp nhận để cho người được ủy quyền tham gia quá trình khiếu nại và giải quyết khiếu nại (mà lẽ ra là phải yêu cầu bên khiếu nại thiết lập lại việc đại diện ủy quyền mới vì theo Luật dân sự việc ủy quyền chấm dứt khi người ủy quyền chết); hay khi người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự đang có người đại diện theo pháp luật của họ thực hiện việc khiếu nại thì khi nào người khiếu nại đã thành niên và đủ năng lực hành vi dân sự (đủ 18 tuổi) hoặc năng lực hành vi dân sự đã được khôi phục thì việc đại diện đó sẽ bị chấm dứt theo pháp luật dân sự..v..v.
Để thuận lợi cho việc nghiên cứu, kiểm tra, đối chiếu các quy định của pháp luật trong việc xét chấp nhận đúng tư cách và nội dung việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại thông qua người đại diện, chúng ta cần nắm rõ một số quy định của Bộ Luật dân sự 2015 về vấn đề đại diện để tổ chức, cá nhân có liên quan nghiên cứu làm cơ sở cho việc thực hiện.
Bộ Luật dân sự 2015 quy định có hai loại đại diện đó là: Đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền. Đồng thời, còn quy định về thời hạn đại diện, phạm vi đại diện, hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập hoặc thực hiện vượt quá phạm vi đại diện.
Vấn đề cần lưu ý thêm nữa là tại Điều 142 và 143 của Bộ Luật dân sự nhấn mạnh: Hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện hoặc thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì các giao dịch này không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện trừ một trong các trường hợp theo quy định tại các Điều này. Theo đó, nếu các nội dung làm cơ sở kết luận việc giải quyết khiếu nại xuất phát từ việc xác lập hoặc thực hiện không đúng về quy định của nội dung, đối tượng đại diện thì kết quả giải quyết đó không đảm bảo tính hợp pháp.
Trên đây là những nội dung cần nghiên cứu thêm đối với các quy định pháp luật có liên quan, để qua đó, người tiếp công dân, xử lý đơn, cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại cần chú ý làm căn cứ để kiểm tra, rà soát, hướng dẫn cá nhân, tổ chức làm đúng khi thực hiện quyền khiếu nại thông qua người đại diện, góp phần đảm bảo không làm phát sinh hậu quả pháp lý do việc thực hiện quyền đại diện không đúng quy định./.
Nguồn: Lưu Thị Anh Thư (PTP. Thanh tra Khiếu nại, tố cáo)
Tin liên quan:
Luật Tố cáo năm 2018 có hiệu lực ngày 01/01/2019 thay thế Luật Tố cáo năm 2011. Đây là đạo luật quan trọng, thể chế hoá quyền tố cáo của công dân được quy định tại Điều 30 Hiến pháp năm 2013, tạo điều kiện để người dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát hiện cho Nhà nước để kịp thời ngăn chặn và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật, nhất là những hành vi tham nhũng, tiêu cực, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Tuy nhiên qua nghiên cứu về quy định “Người đại diện” trong trường hợp “Người tố cáo không có đủ năng lực hành vi dân sự” theo Điểm b, Điều 29 của Luật Tố cáo năm 2018 đã có một số vấn đề cần phải được nghiên cứu và quy định cụ thể hơn thì mới áp dụng được trong thực tiễn
Ngày 16/10/2014, Thanh tra Chính phủ ban hành Thông tư 05/2014/TT-TTCP Quy định về tổ chức, hoạt động, quan hệ công tác của Đoàn thanh tra và trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra (TT 05/2014/TT-TTCP ) thay thế Thông tư số 02/2010/TT-TTCP ngày 02/3/2010 của Tổng Thanh tra ban hành Quy định quy trình tiến hành một cuộc thanh tra.
Nhiệm vụ thẩm định dự thảo kết luận thanh tra của Thanh tra tỉnh trong thời gian qua đã góp phần nâng cao chất lượng các kết luận thanh tra, bảo đảm việc ban hành kết luận thanh tra được chính xác, khách quan, có tính khả thi và đúng quy định pháp luật. Trong thời gian qua, nhiệm vụ thẩm định dự thảo kết luận đã đạt được những kết quả nhất định, song công tác thẩm định dự thảo kết luận thanh tra cần phải sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện, nâng cao chất lượng thẩm định. Vì vậy, ngày 07/5/2018, Chánh Thanh tra tỉnh ban hành Quyết định số 68/QĐ-TTT Quy trình thẩm định dự thảo kết luận thanh tra tại Thanh tra tỉnh An Giang thay thế Quyết định số 34/QĐ-TTT ngày 23/3/2017.
Tố cáo và giải quyết tố cáo hiện nay là một trong những vấn đề trọng tâm được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đặc biệt quan tâm bởi tính nhạy cảm và tác dụng tích cực cần thiết đối với công cuộc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện một nhà nước Việt Nam trong sạch, vững mạnh, năng động và hiện đại. Để từng bước xử lý tốt vấn đề tố cáo, pháp luật về tố cáo hiện hành cơ bản đã bổ sung nhiều quy định rõ và cụ thể hơn so với Luật Khiếu nại, tố cáo ban hành năm 1998 và được sửa đổi, bổ sung năm 2004, năm 2005. Tuy nhiên, khi áp dụng vào thực tiễn, pháp luật tố cáo còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, trong đó có vấn đề xử lý việc rút tố cáo
Trong những năm qua, công tác giải quyết khiếu nại trên địa bàn tỉnh An Giang rất được chú trọng và quan tâm tích cực từ các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên, công chức và tổ chức có liên quan. Từ đó, hiệu quả giải quyết khiếu nại, nhất là việc giải quyết kịp thời, dứt điểm đối với đơn thẩm quyền mới phát sinh trong lĩnh vực thu hồi đất để thực hiện các dự án là rất khả quan, trong đó, thành phố Long Xuyên là địa phương điển hình có kết quả giải quyết cao trong năm 2017
Luật Đất đai năm 2013 có nhiều điểm mới, quy định cụ thể, đầy đủ các nội dung liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất, công tác quản lý Nhà nước về đất đai,… phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong tình hình mới và hội nhập quốc tế. Theo đó, đã quy định cụ thể về các trường hợp nhà nước thu hồi giấy chứng nhận (GCN) quyền sử dụng đất; đồng thời, trình tự thủ tục thu hồi GCN được quy định theo Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai và hiện nay có Nghị định 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ (sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai).
Nhằm cụ thể về trình tự, thủ tục tiến hành thẩm định Dự thảo kết luận thanh tra của Thanh tra tỉnh hoặc Dự thảo kết luận thanh tra của Đoàn thanh tra do Thanh tra tỉnh tham mưu Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh thành lập, ngày 23/3/2017, Chánh Thanh tra tỉnh An Giang đã ban hành Quyết định số 34/QĐ-TTT Quy trình thẩm định Dự thảo kết luận thanh tra tại Thanh tra tỉnh; Quy trình này gồm 03 chương, 13 điều. Theo đó, nội dung thẩm định Dự thảo kết luận thanh tra gồm ba nội dung chính: Công tác chuẩn bị thẩm định, công tác tiến hành thẩm định và kết thúc việc thẩm định.
Đẩy mạnh công tác theo dõi, đôn đốc và kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra theo quy định tại Thông tư số 01/2013/TT-TTCP ngày 12/3/2013 của Thanh tra Chính phủ và Nghị định số 33/2015/NĐ-CP ngày 27/3/2015 của Chính phủ; ngày 10/02/2017, UBND tỉnh tiếp tục ban hành Văn bản số 169/UBND-NC về việc thực hiện kế hoạch thanh tra và theo dõi việc thực hiện kết luận thanh tra
Tố cáo là lĩnh vực phức tạp, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, đồng thời xác định giải quyết tố cáo là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các cơ quan nhà nước và là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác giải quyết tố cáo là nội dung quan trọng trong việc đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước và cải cách hành chính nhà nước.
Bảo vệ bí mật nhà nước vừa là nghĩa vụ của cán bộ, công chức theo Luật Cán bộ, Công chức, đồng thời cũng là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong hoạt động của tất cả các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên liên quan. Bí mật nhà nước thuộc nhiều lĩnh vực như chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, khoa học công nghệ, đối ngoại và một số lĩnh vực khác không công bố hoặc chưa công bố. Nếu bí mật Nhà không được quan tâm và thực hiện bảo mật đúng quy định thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của các cơ quan, tổ chức và gây nguy hại đến sự tồn tại và phát triển của đất nước. Chính vì tầm quan trọng của công tác này nên Nhà nước liên tục ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định và hướng dẫn thực hiện, trong đó đã quy định rất cụ thể các quy định đối hoạt động của ngành Thanh tra.